Bối cảnh theo con mắt kẻ hậu sinh
Sau hơn nửa thế kỷ lu mờ trong quên lãng, nhờ những người con có chí hướng cao, trong xu thế dân chủ hóa tình cờ nhờ kỹ thuật thông tin phổ cập và rẻ như cho (không in loại sách giấy thì “in” và công bố trên mạng dưới định dạng e-Book), và thế là trên bàn thờ Nguyễn Triệu Luật và nhà thờ họ ở làng Du Lâm ngoại và làng Vân Điềm, trên giá sách của con cháu và bạn bè, đã sừng sững dầy dặn gần toàn bộ tác phẩm, những áng văn cấm kỵ một thời cuối cùng đã có cái may mắn được công bố – những cuốn tiểu thuyết lịch sử cuốn nào cũng hay, những văn phẩm của trí tưởng tượng ngang ngửa về giá trị nghệ thuật với những tác phẩm cùng thể loại của các đại tác gia nước ngoài. Nói tới đại tác gia nước ngoài ở đây, là nghĩ đến một Victor Hugo hoặc một Alexandre Dumas chẳng hạn. Tư Mã Thiên cũng là một tác gia lớn, trí lự và tuyệt đối tài năng, nhưng Tư Mã Thiên chỉ là một nhà sử học đơn thuần, vị sử gia vĩ đại này chưa thành nhà tiểu thuyết lịch sử tài hoa như Nguyễn Triệu Luật của chúng ta !
Khi Nguyễn Triệu Luật còn sống và công bố dần các văn phẩm, thế hệ người viết bài này còn bé bỏng, sau đó lớp trẻ chúng tôi còn phải mài đũng quần theo bậc tiểu học trường Tây, rồi bậc cao đẳng tiểu học trường Tây rồi nửa Tây nửa Ta (hiếm người đọc và hiểu Nguyễn Triệu Luật), sau đó là chiến tranh liên miên, rồi cùng với chiến tranh là sự xuất hiện của cái “mái trường xã hội chủ nghĩa” nằm bên trong một thứ môi trường văn hóa tự đào tạo rồi tự xưng là một hệ thống mới, mới hoàn toàn, mới triệt để, mới và không dung nạp bất kỳ giá trị văn hóa nào khác gửi trong những tài năng thực sự là tài năng. (Chắc chắn Nguyễn Triệu Luật và các đồng chí của ông không thể có chỗ đứng trong hệ thống mới mẻ triệt để này – một chỗ nằm thì chắc là có, và dĩ nhiên là đã có rồi). Thế hệ người viết bài này khi bừng tỉnh thì đã sống gần trọn một cuộc đời trăm năm, gần một thế kỷ cô đơn trong một cuộc đời mới hoàn toàn mới được định nghĩa là một cuộc đời làm chủ tập thể ấm áp. May sao, trong quãng thời gian dài như chớp mắt ấy, một Liên Xô mênh mông ngạo mạn đã kịp tự mình khuỵu xuống rồi chẳng ai mó tay xô đẩy cũng tự mình sụp đổ như say hoặc như thiếu vodka. Chưa hết, các nước xã hội chủ nghĩa anh em văn minh nhất ở bên trời Tây cũng theo nhau sụp đổ… để cả một hệ thống “phe ta” chỉ còn rơi rớt lại vài ba nước như mấy kẻ mồ côi, song thảy đều là những kẻ mồ côi to lớn lộc ngộc, to xác mà chưa chịu khôn, những nền văn hóa tự nhận là “tinh hoa” đấy, mà vô cùng lạc hậu …
May sao, muộn còn hơn không, tác phẩm Nguyễn Triệu Luật đã đến với xã hội nhờ đó mà đến với thế hệ chúng tôi, như một dòng nước mát cho kẻ khát, như những lời giảng giải cặn kẽ chi li cho những tên học trò mất phương hướng nên đã thành trò hư, như những khát khao của một dòng nước mát mang theo cơn khát cho những tâm hồn ham sống trong một cuộc đời có những giá trị nghệ thuật bi thiết và đích thực.
Nhân dịp này, kẻ hậu sinh thiếu thốn sở học này xin có vài lời cảm nhận sau hơn một tháng đêm đêm chong đèn đọc đi đọc lại tám tác phẩm tiểu thuyết lịch sử Nguyễn Triệu Luật.
Lịch sử – Sử học – Tiểu thuyết lịch sử
Nói một cách bóng bảy, thì Lịch sử là một “thằng câm”, còn Khoa học lịch sử (hoặc môn Sử học) là kẻ tình nguyện đứng ra tìm cách nói hộ thằng Câm vĩ đại kia bằng cách nói to lên những điều vẫn gọi bằng sự thật lịch sử – nhưng oái oăm thay, rất nhiều khi những “sự thật” đó lại chỉ là một nửa sự thật, một nửa đã khá, có khi thậm chí là một nửa phần trăm sự thật – và có khi còn là những “sự thật” bị bóp méo hoặc những “phản sự thật”.
Vì sao? Vì cuộc sống của “thằng câm” trôi đi và thường không để lại dấu vết hoặc để lại rất ít dấu vết, và phần lớn những dấu tích cũng lại “câm” nốt. Ngay vào thời hiện đại, với phương tiện hiện đại, bằng cách phân tích phóng xạ C14 thì kết quả tra khảo “thằng câm” xem sự kiện ấy xảy ra hôm nào, thì câu trả lời cũng xê dịch chính xác … trên dưới vài ba hoặc dăm bảy nghìn năm!
Và thế là cuộc sống ấy, để có được những bài học lịch sử rút ra từ những sự thật hoặc nửa sự thật lịch sử ấy, thảy đều do những sử quan chuyên nghiệp hoặc không chuyện nghiệp ghi lại. Quyền lực của các “sử quan” đó thật gớm ghê, đến độ nhà sử học Pháp Antoine Prost không ngần ngại cho rằng “Các nhà sử học làm nên lịch sử”, hoặc “lịch sử, đó là những gì các nhà sử học làm ra”… Trong trường hợp Nguyễn Triệu Luật chẳng hạn, các sử quan nhu mì dễ sai khiến có thể làm cho một nhà tiểu thuyết lịch sử biến mất khỏi cuộc sống, không để lại dấu vết.
Có thể dùng thêm thí dụ sau đây tìm thấy trong lời giới thiệu Sử ký Tư Mã Thiên của học giả Phan Ngọc để minh họa cho ý kiến của Prost:
“ … chức sử quan ngoài việc chép sử còn coi thiên văn, làm lịch, bói toán. Nghề viết văn, viết sử, xem sao, xem lịch thì cũng gần với bọn thầy bói, thầy cúng. Chúa thượng vẫn đùa bỡn nuôi như bọn con hát, còn thế tục vẫn coi thường. Tuy vậy, Tư Mã Đàm (cha của Tư Mã Thiên) vẫn thấy cái nghề của mình là cao quý vì ông biết nó có tác dụng to lớn đối với sự thịnh suy, hưng vong của một nước ”ii.
Và đây là một ca sử quan rất đáng cho ta suy nghĩ :
“… khi Thôi Trữ giết vua Tề thì quan thái sử nước Tề viết : “Thôi Trữ giết vua của mình là Trang Công”. Quan thái sử bị giết, người em lên thay vẫn viết như vậy nên bị giết luôn. Ngay lúc đó, người em thứ ba xin lên thay không thêm bớt một chữ. Thôi Trữ sợ không dám giết.”iii
Những sự thật lịch sử cả về phía nhân vật lịch sử lẫn người sử quan như vậy là những điều sử sách còn ghi lại được. Nhưng có biết bao nhiêu điều sử sách chịu không sao ghi lại nổi? Câu hỏi này tự nó đã là câu trả lời.
Vì thế mà cuộc sống rất cần đến những nhà hoạt động văn học nghệ thuật – những con người chỉ có một sứ mệnh nói lên không phải là những sự thật lịch sử, mà nói lên những nỗi niềm lịch sử. Mỗi nghệ sĩ đó bao giờ cũng có những nỗi niềm riêng tư vô cùng mạnh mẽ khiến họ không thể chỉ giữ cho riêng mình, không thể không nói ra. Và một khi họ nói nỗi niềm đó ra thì những tiếng nói họ cất lên lại có một sức mạnh hoàn toàn khác với những điều đã được kể ra từ cửa miệng các sử quan, kể cả các sử quan dẻo mồm nhất.
Với tư chất bao giờ cũng khiêm nhường, thậm chí nhiều khi nhút nhát, các nghệ sĩ chẳng mấy khi dám nhận là họ nói hộ nỗi niềm của toàn xã hội – họ chỉ nói lên riêng một nỗi niềm của họ mà thôi. Song chính cái niềm riêng đó mới đụng chạm sâu sắc được tới những niềm chung (gửi trong tấm lòng các bạn đọc tiểu thuyết lịch sử, của bạn xem kịch và coi phim lịch sử, của bạn ngắm tượng đài lịch sử…). Đến lượt nó, cái quần chúng có văn hóa của một dân tộc sẽ tiếp nhận hai luồng ảnh hưởng tinh hoa: ảnh hưởng về lý trí từ các sử quan tử tế, và ảnh hưởng về tình cảm từ các nghệ sĩ chân chính và tài năng.
Song, cần nhắc lại yếu tố vừa được nhắc tới: các nghệ sĩ chân chính và có tài năng. Chỉ những nghệ sĩ chân chính và có tài năng mới có thể để lại những tác phẩm nghệ thuật mang đề tài lịch sử. Chỉ những nghệ sĩ chân chính mới có nỗi đau khiến họ phải đào sâu vào khoa học lịch sử chẳng kém một nhà sử học ưu tú nhất, song họ lại hơn đời ở một nỗi ưu tư nên họ mới làm ra được tác phẩm nghệ thuật có đề tài lịch sử – “tác phẩm nghệ thuật với lịch sử như một cái cớ” – sử dụng tính ẩn dụ của nghệ thuật để gợi ý được nhiều hơn với người đời – có thể coi như ngang bằng hoặc hơn là một cách biểu đạt khác của Sử học.
Quan niệm tiểu thuyết lịch sử
Trước hết, ta hãy nói về quan điểm đó, rồi sau đó sẽ cùng nhau lý giải về quan điểm đó.
Đây là quan điểm của Nguyễn Triệu Luật về tiểu thuyết lịch sử :
“…, viết “lịch sử tiểu thuyết” (roman historique) không cần theo phép của Sử học. Tác giả chỉ phải tưởng tượng ra một “truyện có thể có” ở một thời đại, rồi đem chuyện ấy lồng vào khung thời đại ấy. Mục đích là lấy một chuyện không đâu mà làm sống một thời đại. Những tiểu thuyết Notre-Dame de Paris, Quatre-vingt Treize của Victor Hugo, Les filles d’autrefois của Léon Daudet, đều là bịa đặt, nhưng đọc truyện đó, ta thấy cả thời đại hồi Vua Louis và hồi Đại Cách mạng sống lại” (Lời nói đầu cho tiểu thuyết Hòm đựng người)iv.
Victor Hugo có hai tiểu thuyết lịch sử gần như thể hiện đầy đủ quan điểm của Nguyễn Triệu luật về thể loại này : cuốn Thằng gù ở Nhà thờ Đức Bà Paris (1830) và cuốn Chín Mươi Ba (1870)v.
Chín Mươi Ba đúng là một câu chuyện “tưởng tượng, bịa đặt, không đâu” nhưng “đủ sức làm sống lại một thời đại”, như lời Nguyễn Triệu Luật. Câu chuyện được Victor Hugo đặt vào năm 1893, năm đại khủng bố, năm Cách mạng phải chống chọi thù trong giặc ngoài, cái năm mà ba tiểu đoàn Paris, mỗi tiểu đoàn sáu trăm binh sĩ tình nguyện, tiểu đoàn một còn lại hai mươi bảy anh em, tiểu đoàn hai còn lại ba mươi ba, và tiểu đoàn ba còn năm mươi bảy. Thời của những cuộc chiến đấu thấm đẫm chất anh hùng ca…, cũng là năm đầu rơi máu chảy quyết liệt, năm máy chém hoạt động hết công suất… Thế nhưng vào năm đó Gauvain một sĩ quan trẻ của Cách mạng, sau khi bắt giữ được hầu tước Lantenac một lãnh tụ phản cách mạng vô cùng nguy hiểm mới từ nơi trốn tránh ở bên Anh lần về nước hoạt động bí mật chống phá Cách mạng tại vùng phản loạn Vendée, chàng Gauvain đã thả cho ông già đó được tự do vì anh đã chứng kiến hành động nhân đạo tuyệt trần khi ông ta xông vào lửa cứu lũ trẻ nhỏ. Gauvain bị ông Cimourdain thày học của mình nay lại là một cấp “chính ủy” của mình lập hội đồng xét xử và tuyên án tử hình.
Gauvain thanh thản lên máy chém vì đã thỏa mãn cả tinh thần nhân bản cũng như tinh thần thượng tôn pháp luật của Cách Mạng! Nhưng khi cái đầu của người học trò vừa lăn vào rọ, thì người thày học cũ, chính ủy Cimourdain cũng rút súng ra tự sát, để hai linh hồn bi thương đồng điệu tay trong tay cùng bay lên, bóng tối của tâm hồn này hòa trộn với ánh sáng của tâm hồn kia.
Tiểu thuyết Hòm đựng người của Nguyễn Triệu Luật cũng mang một câu chuyện như thật mà cũng chẳng kém huyền hoặc. Đó là một câu chuyện tình giữa Vũ Lăng Hầu Duy Lễ, một ông hoàng thất sủng, với nàng Âu Mai, một cung phi được sủng ái quá mức, sủng ái đến độ vua chết rồi còn được “tuyển dụng” tiếp đi theo vào lăng để hàng ngày hương khói cho cái xác cựu vương, hàng ngày cùng cả trăm chị em cung nữ khác, cả trăm cái bóng ma áo trắng đó bị chôn sống theo cái thói tham lam của kẻ chuyên chế. Bên cạnh việc chạy chọt cho Âu Mai sớm được về với gia đình, trong lúc chờ đợi, một cuộc âm mưu kỳ thú được tạo ra ở chính cái nhà tù chung thân kỳ quái này: trong một lần “thăm nuôi” nàng Âu Mai, người nhà đã cho ông hoàng thất sủng Duy Lễ trốn vào trong hòm và cùng với những đồ tiếp tế khác đã khiêng chàng đi “tiếp tế” cho cái xác người Âu Mai ngồn ngộn sự sống đang bị chôn sống trong lăng cựu vương.
Giống như Gauvain của V. Hugo thanh thản lên máy chém vì sứ mệnh Tự do, Bình đẳng, Bác ái, nàng Âu Mai cùng cô hầu Thúy Hồng cũng cắn răng chịu đựng mọi cực hình khi vụ việc bại lộ. Người đọc chỉ hơi tiếc một chút: trong tiểu thuyết Chín Mươi Ba Victor Hugo để cho hai thày trò tâm sự với nhau suốt một đêm trong ngục trước ngày Gauvain lên máy chém (một phát triển rất tự nhiên của câu chuyện đang kể) thì việc mô tả các loại cực hình mà Âu Mai cùng Thúy Hồng chịu đựng lại có vẻ như những trang tư liệu giáo khoa lịch sử có phần khô khan (một câu chuyện đang kể tự nhiên như tiểu thuyết hình như có phần bớt tự nhiên đi, và do đó sự già gan chịu cực hình của Âu Mai và Thúy Hồng hình như chỉ cốt phục vụ cho việc mô tả các cách thức cực hình thời đó.
Cũng cần thông cảm, nếu ta đặt địa vị mình vào vai trò người cầm bút. Hình như tác giả cũng bó tay khó có cách gì hơn để cho hai nhân vật chính của câu chuyện tình được thấy mặt nhau lần cuối. Lý giải sao đây? Có lẽ vì Nguyễn Triệu Luật vẫn còn là nhà sử học, nhà văn viết tiểu thuyết lịch sử ấy đã không dám bịa đặt nhiều hơn mức độ cái Thật Lịch sử cho phép – một trình độ dễ dàng vượt qua nếu Nguyễn Triệu Luật chỉ thỏa mãn với việc tưởng tượng cỡ Phan Trần Chúc hoặc Lê Văn Trương hoặc Lan Khai hoặc Thế Lữ cùng thời đó).
Điều này liên quan tới sử liệu trong tay nhà Sử học và sử liệu trong tay nhà văn viết tiểu thuyết lịch sử.
Sử liệu trong tay nhà tiểu thuyết
Nhà văn viết tiểu thuyết lịch sử đứng trước một vấn đề rất gay cấn: làm cách gì để bạn đọc đinh ninh rằng những điều nhà văn đang tưởng tượng rồi kể ra đều là những chuyện “có thật” chứ không phải là bịa đặt do đó không tin được? Chính cái yếu tố kiềm chế cuả nhà văn khiến cho không khí lịch sử được Nguyễn Triệu Luật miêu tả có được sự tin cậy với bạn đọc.
Trước hết, sự tin cậy nằm trong những sử liệu Nguyễn Triệu Luật dùng trong tiểu thuyết của mình và bạn đọc biết chắc các sử liệu đó đều đã có trong những tài liệu chính thức khác. Bọn Kiêu binh ở Thăng Long đã được kể lại cả trong chính sử lẫn trong những ghi chép văn chươngvi. Những sử liệu đó thường là ngắn gọn, những câu kể và không cần đến những câu tả cũng như những biểu đạt thuộc tâm lý nhân vật đang sống trong chính các sự kiện lịch sử ấy.
Đóng góp của Nguyễn Triệu Luật nhà văn viết tiểu thuyết lịch sử là ở hai điểm.
Điểm thứ nhất là Nguyễn Triệu Luật đã có công dùng văn phong tiểu thuyết để miêu tả và dựng lại bối cảnh cho sinh động như thật. Bạn đọc có thể thấy ngôn ngữ và hành động – đặc biệt là tâm lý đám đông trong cách ứng xử của lính tam phủ (lính tuyển ở ba phủ Hà Trung, Thiệu Hóa và Tĩnh Gia thuộc tỉnh Thanh Hóa) khi bọn họ trở thành ưu binh đóng trại ở sát các Phủ Chúa sau khi đã giúp nhà Lê Trung hưng, khi họ được lôi cuốn vào những việc quốc gia đại sự như những con rối đầy tiếng ồn và đấy sức phá phách…
Điều đóng góp thứ hai của Nguyễn Triệu Luật là cùng với văn phong miêu tả ấy, Nguyễn Triệu Luật còn tôn cao được đặc điểm tâm lý của nhân vật là điều các sách chính sử không có trách nhiệm nói ra đã đành, mà ngay cả sách bút ký văn chương (Hải Thượng Lãn Ông và các tác giả văn phái họ Ngô) lắm khi cũng bỏ qua hoặc chỉ nói bằng những câu kể gọn lỏn, trong vụ Tĩnh đô vương chẳng hạn thì chỉ nói đến bỏ con trưởng lập con thứ, thế thôi. Nhưng trong Bà Chúa Chè, đoạn miêu tả liên quan đến cả chuỗi âm mưu đòi bỏ con trưởng lập con thứ đó thật hết sức thú vị, bộc lộ sự khéo léo của Đặng Thị Huệ, nói được tâm trạng cả nể của Tĩnh Đô vương nữa …
Như đoạn này chẳng hạn:
“Ở Bội Lan Thất, Đặng thị ngồi chờ chúa Tĩnh Đô để thưởng trăng rằm tháng tám.
“Ngoài sân, dưới gốc cây mai già đã bày sẵn tiệc thưởng nguyệt. Trên một cái sập gỗ kim giao trắng bóng như ngà, bày đủ các thức hoa quả thì trân cùng những món thực phẩm thưởng nguyệt: ốc nhồi, gỏi cá. Xung quanh mâm đặt ba chiếc nệm điêu thử để chỗ sẵn ba người ngồi: chúa, Đặng thị và vương tử Cán. Lúc đó mới đầu giờ Dậu, trăng chưa lên, nên Đặng thị còn ngồi trong nhà.
“Một lúc, vào cuối giờ Thân, chúa Tĩnh Đô ngự đến, đi giữa hai dẫy đèn lồng phất lượt đỏ, vẽ long mã. Thưởng chè trong Bội Lan Thất xong, chúa cùng ái phi ra dự tiệc. Xung quanh sập bọc, một đoàn thị nữ cầm đèn lồng soi sáng. Một lúc trăng lên. Chúa truyền tắt đèn để hưởng ánh trăng bạc. Trông ánh trăng luồn qua cành mai, chúa tươi cười:
“ – Trăng hôm nay trong, tăng thêm vẻ đẹp cho gốc mai. Thi nhân nói rằng Hữu mai vô tuyết bất tinh thần, nhưng mai với trăng có lẽ đẹp hơn mai với tuyết.
“ Đặng thị tiếp:
“ – Hữu mai hoa xứ, nguyệt minh đa
Có mai trăng lại càng trong,
Huệ kia không quả còn mong nỗi gì.
“Chúa xoa đầu Tử Cán:
“ – Huệ không có quả là gì đây?
“ – Quả vô dụng, có cũng uổng thôi.”vii
Hoặc giả Sử học và các tư liệu lịch sử đều ghi lại chuyện tư thông Huy Quận công Hoàng Đình Bảo và Đặng Thị Huệ cùng với việc hai người này hợp sức tổ chức quyền lực. Sách sử đều ghi bài ca lưu truyền nửa giễu cợt nửa sấm truyền này:
Trăm quan có mắt như mờ
Để cho Huy quận đi sờ Chính cung.
Đục cùn thì giữ lấy tông,
Đục long, cán gẫy còn mong nỗi gì…
Thế nhưng, với ngọn bút Nguyễn Triệu Luật, cả một khung cảnh đàn áp, dọa nạt, đe dọa, khủng bố, bắt bớ đã được miêu tả tỉ mỉ và hóm hỉnh, nói rõ được tâm trạng người dân sống nơm nớp bất an:
“ Ở bãi cỏ trước cửa Đông Hoa, dân gian đương đứng xúm vòng trong vòng ngoài, xem lính phủ Trung duệ sắp hành hình cắt lưỡi một bọn năm người vừa mới bắt và điệu ở chợ Đông Thành đến. Lúc lính vào chợ, sấn vào giữa đám đông bắt thì người ta chạy giạt cả ra phía bờ sông, Cầu Cháy, sợ phải bắt lây. Lính vào túm được có năm người, bắt trói giải. Khi số người xấu số bị bắt đã bị giải, thiên hạ lại túm đông lại xem, rồi riều riễu vây theo cho đến tận bãi cỏ trước cửa Đông Hoa.
“ Năm người bị trói ghì vào năm cái cọc cắm sâu xuống đất. Khi lính lấy kìm vành mồm, kéo lưỡi ra cắt, trong đám đông người, người ta thấy thì thầm tiếng kháo chuyện:
“ – Thằng hát chẳng bị cắt lưỡi, thằng đứng nghe bị cắt lưỡi.
“ – Có, thằng trói ở gốc thị kia, thằng ấy có hát.
“ – Kể hát, thì lúc ấy vui mồm ta cũng có hát. Kể bắt thì trăm người mới đủ.
“ – Mới biết mày nữa là sáu.
“ Một bàn tay nắm gáy người vừa khoe rằng có hát, rồi lôi ra bãi cỏ, trói vào một cái cọc nữa …viii
Đoạn văn vừa trích cho thấy ngòi bút tài hoa của Nguyễn Triệu Luật không chỉ kể chuyện về sự khủng bố chính trị thời nhiễu nhương Lê-Trịnh, mà còn miêu tả được tâm trạng công chúng và cách thức bắt người, cách thức đàn áp dư luận. Mới biết mày nữa là sáu – một câu nói hết sức hồn nhiên tùy tiện của người lính đi bắt kẻ phạm tội, được Nguyễn Triệu Luật nghĩ ra, nay đọc lên sao mà thấy tức cười!
Ở nhiều đoạn, Nguyễn Triệu Luật đều có văn phong miêu tả vừa tỉ mỉ vừa hóm hỉnh như thế.
Trên kia, người viết bài này đã mạo muội chê đoạn kết của Hòm đựng người. Xin nói luôn: chỉ một đoạn kết ấy là có chút sơ hở thôi. Những đoạn kết khác đều gây cho bạn đọc sự hồi hộp khi dõi theo tâm trạng nhân vật chính.
Đó là sự gan góc của Bà Chúa Chè Đặng Thị Huệ nhất quyết không chịu đứng chung chiếu (chung thứ bậc):
“ Quan Tri Lễ Phiên đến sắp đặt. Trông thấy Tuyên phi, ông nói:
“ – Lúc hành lễ, vương phi đứng ở chiếu thứ ba. Chiếu trên là chỗ Vương thượng; chiếu thứ hai là chỗ Vương thái phi; chiếu thứ ba là chỗ chính phi cùng vương phi đứng.
“ – Xin vâng.
“ Nàng nghĩ bụng: “Ta đứng cùng chiếu với vợ hắn, kể ra thì cũng phải, nhưng khi nào lại chịu đứng sau hắn, nhất là sau mẹ hắn, con Dương Ngọc Hoan! Bà hắn đứng sau hắn lại là nghĩa khác. Ta khi nào lại chịu!
“ Giờ tế đã đến …
[ … , … , …]
“ Bẩm Chính cung cùng Tuyên phi tựu vị.
“ Chính cung tiến vào đứng chiếu thứ ba.
“ Mọi người nhìn Tuyên phi, vẫn thấy nàng không nhúc nhích. Đợi mãi không được, quan Đông xướng xướng sang câu khác.
“ Lễ … ễ … tất … ất …
“ Mọi người lui ra. Lúc đó người ta mới thấy Tuyên phi tiến vào, đứng ở chiếu thứ nhất. Lính thét nàng ra, nàng vẫn đứng nguyên, ôm mặt khóc rưng rức. Chúa Đoan Nam nói:
“ – Thôi để mặc cho Tuyên phi lễ.
“ Khóc một lúc, nàng phục xuống. Mọi người vẫn nghĩ là nàng ngồi xuống lễ, ai ngờ thấy nàng ngã sấp xuống, rồi một dòng máu tuôn ra chiếu lễ.
“ Mọi người túm vào thì nàng đã nằm phục trên đống máu, một con dao cắm từ hầu lòi qua gáy.ix”
Cái chết của Tuyên phi Đặng Thị Huệ là cái chết của người theo đường lối “được ăn cả, ngã về không”, con người quyết liệt từ bé, con người khác hẳn ông đồ cha mình chỉ muốn an phận thủ thường, con người có chí như Ngũ Tử Tư Nhật mộ đồ viễn, đảo hành nghịch thi, đường thì còn xa mà việc thì còn nhiều, phải chọn cách làm ngược thì mới nên nghiệp lớn đượcx.
Tâm lý Đặng Thị Huệ lại khác hẳn tâm lý của Trịnh Khải khi vị chúa này chạy trốn loạn Kiêu binh. Nguyễn Triệu Luật đã phác họa nên chân dung mang tâm trạng một chúa Trịnh Khải. Đó là một con người tài hoa, có khiếu hài hước nữa, đến bước đường cùng phải cải trang cùng mấy tên bầy tôi trốn khỏi kinh thành trước bước tiến không gì cản nổi của quân nhà Tây Sơn từ phương Nam tràn ra Bắc Hà. Và bây giờ là lần lượt liên tiếp những trạng thái lo âu rồi vững tâm, cả tin và cũng ngờ vực, sợ hãi và vững dạ … cho đến khi tự tìm đến cái chết!
Trịnh Khải qua sông để sang làng Lực Canh (chỗ làm cầu nhật Tân bây giờ), trong bụng hồ nghi,
“… không biết nên tin hay nên ngờ. Thật là em Nguyễn Đường chăng, mà bụng dạ cũng như Nguyễn Đường chăng? Hay là một đứa phản thần nào đó biết rõ tung tích gia thế Nguyễn Đường mạo nhận để lừa vua?
“ Sau cùng đành liều mà bảo Nguyễn Noãn gọi đò. Gọi mãi mới được một chiếc đò nhơ nhỡ đủ hai người một ngựa xuống thuyền.
“ Ngồi mạn thuyền, Trịnh Vương băn khoăn lo lắng. Muốn nhìn xem mặt tên Noãn có giống Nguyễn Đường không thì một ngọn đèn dầu không đủ ánh sáng…
[ … ]
“ Ngửa mặt trông trời, trời sao nhấp nhánh, Trịnh Vương sực nhớ lại năm xưa Tả tư giảng Ngô Thì Nhậm giảng ông nghe bộ sách “Quản Khuy”, rồi vương cố tìm xem các sao Đế Tọa ở nơi nào. Gió nồm nam vẫn thổi mạnh, đưa những tiếng ồn ào nơi kinh sư đến. Bây giờ, giặc Tây Sơn đương làm cỏ thành Thăng Long đây.xi”
Đến một lúc, Trịnh vương muốn thoát ra khỏi mọi hồ nghi để biết rõ mình đang bị lừa hay không, phải chăng mình đang trong tay những kẻ sẽ trói mình lại và đem nộp quân Tây Sơn lĩnh thưởng.
Nhưng ngay cả vào những lúc nguy kịch như vậy, con người vương giả mơ mộng vẫn không ngừng cựa quậy.
Trịnh vương làm thơ ! Oái oăm thay, khi nhớ lại những câu thơ ông ta làm dở dang cách nay ba bốn năm, Trịnh vương thấy hai câu mới làm bỗng thành sáu câu thơ có cùng vần. Con người mơ mộng hão đó vẫn còn kịp tự giễu mình :
“ Ô hay, giá ta nghĩ được hai câu ngũ lục nữa thì thành bài thơ. Thân thể ta có lẽ cũng đầu Ngô mình Sở như bài thơ này”xii.
Con người ấy vẫn đùa cợt và vẫn chưa bắt gặp và nhận ra thực tại nguy hiểm cho mình ! Sau một giấc ngủ ở một cái quán cầu, thực tại ấy đây, được nhà tiểu thuyết Nguyễn Triệu Luật viết ra một cách tinh tế :
“ … Chừng đầu giờ Dần, Chúa tỉnh ngủ dậy, nhìn lên trời thấy có trăng.
“ – Hôm nay 26. Trăng lên thì gần sáng.
“ Chúa đánh thức Noãn dậy rồi hai người lại cùng đi. Trời tảng sáng, chúa nhìn kỹ mặt tên Noãn, thấy giống Nguyễn Đường nhưng thần thái thì khác. Cùng một khuôn mặt ấy, sao ở Nguyễn Dường thì khí sắc sáng sủa mà ở Nguyễn Noãn thì khí sắc ấy tối tăm hung ác. Chúa nghĩ bụng ; anh em chưa chắc bụng dạ đã như nhau. Mà nếu đã trái tính nhau thì trái hẳn như trắng với đen. Bụng hơi chờn chợn, chúa hỏi Nguyễn Noãn :
“ – Đây là đâu ?xiii”
Đây là đâu ? Một câu hỏi bi thiết ! Một đấng quân vương chân đứng ngay trên đất nước mình mà phải đặt câu hỏi như của một người xa lạ Đây là đâu ? Một bậc chăn dân được dân đón tiếp khi chạy loạn mà lòng hồ nghi không biết nên tin ai nên cậy vào ai và đặt câu hỏi như người mơ ngủ Đây là đâu ?
Đây là đâu ? Đây là con đường cụt dẫn tới nơi đón rước những con người xứng đáng với con đường cụt ấy – những phe cánh trong triều đình không biết chăn dân chỉ biết đấu đá vì lòng tham vì u mê và vì quyền lực !
Những trang cuối Chúa Trịnh Khải thật vô cùng bi thiết.
Chúa Trịnh Khải tự mổ bụng chết trên cái võng bọn Tuần Trang, Ba Noãn khiêng đi nộp quân Tây Sơn vừa để lấy thưởng vừa để chứng minh tay họ sạch, họ không liên quan gì tới triều đình Lê-Trịnh.
“ Trang dìu thi thể Trịnh Vương về Thăng Long. Long Nhương tướng quân nhà Tây Sơn là Nguyễn Huệ vỗ vào thi thể Trịnh Vương :
“ – Đáng tiếc ! Người đẹp trai như thế này ! Thật đáng tiếc. Nếu sớm biết hàng ta thì cũng được giàu sang ! Sao mà thân làm tội đời như thế này !xiv”
Hình như nhà văn Nguyễn Triệu Luật có cảm thấy tiếng cười lúc này là đúng tính cách một nhân vật tự do chủ nghĩa như Nguyễn Huệ, nhưng dù sao thì một tiếng cười như thế vào lúc này kể cũng hơi ác, nên liền đó nhà tiểu thuyết liền đền bù cho cái chết của chúa Trịnh Khải những dòng hết sức bi tráng tả cảnh Lý Trần Quán chết theo Chúa :
“ … Lý Trần Quán sai đào ở vườn sau nhà một cái huyệt, đặt áo quan vào đó. Đoạn đội mũ, mặc áo tiến sĩ, quay mặt về hướng nam lạy tám lạy :
“ – Tôi bất trung bất nghĩa là Lý Trần Quán xin theo Vương thượng.
“ Lạy xong, ông cởi mũ áo, chít khăn trắng, mặc áo trắng, xuống huyệt nằm trong áo quan rồi bảo Trần chủ nhân :
“ – Ông đậy nắp ván thiên cho tôi.xv”
Những khúc lan man – “lông bông”
Cả Sử học (khoa học lịch sử) lẫn tiểu thuyết lịch sử đều có nhiệm vụ giúp người đương thời rút ra những bài học từ dòng chảy lịch sử, từ “thằng Câm”. Có điều là Sử học thì rút ra các bài học theo cách lập luận của lý trí để tác động tới lý trí, trong khi tiểu thuyết lịch sử thông qua các tình tiết ẩn dụ và thông qua sứ mệnh ẩn dụ của nghệ thuật mà tác động vào tình cảm con người.
Nhận ra điều này thì có thể hiểu lý do vì sao các nhà tiểu thuyết lịch sử hay có những khúc lan man tựa hồ như lạc đề – những digressions được Nguyễn Triệu luật gọi bằng “những lông bông”. Những lan man lông bông lạc đề ấy chẳng qua chỉ là sự bộc lộ những sự “nóng ruột” của các tác giả muốn bạn đọc hiểu ngay, hiểu đầy đủ, hiểu rõ, hiểu tức thời những thông điệp các nhà văn hóa lớn đó gửi tới người đọc – người đời.
Với một chút thiên vị như sau đối với Nguyễn Triệu Luật của chúng ta. Nếu như ở Victor Hugo chẳng hạn sự lan man thường khi là lạc đề, vì những đoạn văn dài dòng đó (đoạn văn dài tả đường cống ngầm ở Paris trong Những người khốn khổ, đoạn văn dài không kém tả cách xây dựng tòa lâu đài của hầu tước Lantenac trong Chín Mươi Ba … ) có thể cắt đi cũng chẳng mấy tác hại tới tác phẩm, thì các đoạn lan man (lông bông) của Nguyễn Triệu luật vẫn tạo thành một nhất thể chặt chẽ với tác phẩm.
Trước hết, Nguyễn Triệu Luật không chỉ lông bông lan man ở giữa chừng câu chuyện đang kể, mà nhà văn đưa ngay vào lời nói đầu, vào lời giới thiệu, để người đọc ít có cơ hội hiểu lầm nhất đối với thông điệp lịch sử của mình. Có lẽ những điều trích sau đây trong lời giới thiệu Bà Chúa Chè khả dĩ bênh vực được cho thiển ý của người viết bài này:
“ Câu chuyện Bà Chúa Chè tôi thuật đây là khơi mào vận suy của nhà Trịnh. Nhà Trịnh, theo câu nói của nhà phong thủy, là một họ : không vương không bá, quyền nghiêng thiên hạ, được hơn hai trăm năm, vạ xảy ngay sát chốn cạnh mình (Phi vương phi bá, quyền khuynh thiên hạ, nhị bách dư niên, tiêu tường nãi họa).
“ Vì mê Bà Chúa Chè, chúa Trịnh Sâm mới bỏ con trưởng lập con thứ. Và bỏ con trưởng lập con thứ, triều đình mới sinh ra vây cánh. Vì bè đảng vây cánh, Kiêu binh mới làm loạn. Vì muốn trị Kiêu binh, chúa Trịnh Khải mới giở tay không kịp, trong nội trị bỏ bễ, ngoài vô tâm với cường lân. Nhân tâm ly tán, nhà Trịnh mới đứng vào cái địa vị mạt vận tàn hôi. Trong việc chôn nhà Trịnh, Bà Chúa Chè là người đào hố, lũ Kiêu binh là lũ đứng chực đẩy người xuống hố, chúa Trịnh Khải là người bị chúng đẩy nhưng cứ chạy quanh miệng hố và vừa tránh vừa tìm cách đuổi lũ chôn người. Lũ chôn người chạy tan rồi, chúa đương lúi húi một mình lấp hố thì vụt đâu có người xa chạy đến, đẩy mạnh một cái, thế là xong đời, xong cả cơ đồ họ Trịnh.
“ Tôi phải đem ba việc : đào hố, đẩy người, và sa hố là ba việc dính liền nhau chép riêng ra. Độc giả đọc xong Bà Chúa Chè, tức là đã xem việc đào hố. Sau đấy đọc Chúa Trịnh Khải và Loạn Kiêu binh, độc giả sẽ xem việc sa hố và đẩy người.
“ Xong, độc giả sẽ xem chuyện Cống Chỉnh là chuyện anh chàng từ xa chạy lại đẩy sấp người xuống hố.xvi”
Lời nói đầu mang nội dung thật mạch lạc. Theo sử liệu, thì việc kiêu binh giết chết Quận Huy còn gây thêm một hậu quả nữa. Theo sử Việt thì ngay khi tin Quận Huy bị giết lan truyền tới Nghệ An đã làm Nguyễn Hữu Chỉnh hết sức lo sợ, vì ông là tay chân thân tín của Quận Huy. Cho nên ông vội đến gặp Trấn thủ Vũ Tá Dao, cũng là em rể Quận Huy, bàn việc chiếm lấy Nghệ An và viết mật thư xui Hoàng Đình Thể giết chủ tướng là Phạm Ngô Cầu để chiếm luôn Thuận Hóa. Thấy Vũ Tá Dao còn ngần ngừ, chưa thể dứt khoát, Nguyễn Hữu Chỉnh cùng với Hoàng Viết Tuyển, dắt díu vợ con chạy vào Quy Nhơn đầu hàng Nguyễn Nhạc, để rồi vào năm 1786 Nguyễn Hữu Chỉnh dẫn quân Tây Sơn ra Bắc Hà diệt nhà Trịnh.
Lời nói đầu đánh giá từng vai trò cá nhân trong toàn bộ sự kiện, cho thấy khi nào thì cá nhân bị “thằng câm” lịch sử cuốn đi trong khi vẫn ngỡ đâu như mình đang làm nên lịch sử.
Lời nói đầu cho ta thấy (hoặc dự cảm) được động cơ của những người mang trong lòng mình những nỗi niềm lịch sử nào đó – những nghệ sĩ mang cảm hứng với những đề tài lịch sử.
Gửi con người hiện đại
Để kết thúc bài viết này, người viết muốn nói nốt đến phương diện dấn thân của nhà văn hóa Nguyễn Triệu Luật.
Thế hệ chúng tôi (thế hệ sau càng “tệ” hơn nữa) không có điều kiện biết nhiều về Nguyễn Triệu Luật. Đến hôm nay mới biết Nguyễn Triệu Luật cùng Nguyễn Thái Học là đồng sáng lập nên Việt Nam Quốc dân đảng, đã ra tù vào tội vì chống chế độ cai trị của người Pháp, đã bị cấm không được dạy học ở các trường công thời Pháp thuộc… và kỳ lạ thay, chỉ trong vòng dăm bảy năm từ 1938 đến 1941 đã xuất bản ào ạt bảy tám tập tiểu thuyết, tập nào cũng hay.
Phương thức dấn thân của Nguyễn Triệu Luật sẽ hiện rõ nếu ta kết nối những cách biểu đạt tưởng như khác nhau trong những bối cảnh tưởng như giống nhau. Những bối cảnh tưởng như giống nhau là cuộc sống thời thuộc Pháp: Nguyễn Triệu Luật dù ngồi dạy học ở đâu thì bối cảnh vẫn thế, nhà giáo uyên bác đó phải “bổ đầu” đám học trò ngơ ngác đến vô cảm trước vận nước để làm cách gì nhồi nhét một chút tinh thần ái quốc cho họ. Với tư cách người thời hiện đại bắt gặp đầy rẫy quanh mình những gương mặt và tâm hồn cũng vô cảm như thế trước thời cuộc, có thể hình dung chắc chắn Nguyễn Triệu Luật phải bi quan, ít nhất cũng phải bi quan bằng thế hệ thất bại đương thời. Như người viết bài này chẳng hạn!
Làm gì ? Một câu hỏi làm gì to tướng treo trước mắt những con người còn có chút ưu tư (ưu tư đến độ bi quan) cho vận nước, cho thế hệ mai sau. Câu giải đáp hiện ra: viết sách Lịch sử và giảng giải Lịch sử.
Trong các công trình sáng tạo của mình, Nguyễn Triệu Luật nói chuyện lịch sử với một tác phong níu kéo con người về với cái hiện thực đương thời. Những cách dắt truyện “…ngày xưa ở chỗ bây giờ là phố Hàng lọng…” “… là núi Khán và núi Nùng …” “ là nhà bảo tàng Louis Finot chạy dọc con đường Pierre Pasquier cho tới phố Duvillier …” Người viết bài này không thấy đó là những dòng “lan man lông bông”, mà nghĩ rằng cần thấy ở đó một thông điệp : “các bạn trẻ ơi, chân các bạn đang hàng ngày xéo qua những sự kiện lịch sử bi tráng của dân tộc, cầu mong sao các bạn hãy ngừng cười to một chút, các bạn hãy ngừng ngâm ngợi những bài thơ vô duyên… và hãy nghĩ hãy nghĩ hãy nghĩ…”
Điều quan trọng ở đời này là nghĩ chứ không phải là biết. Biết một mà nghĩ mười hơn hẳn biết mười mà chỉ nghĩ một.
Tưởng đâu như thông điệp đang tiếp tục… Các bạn có biết vì sao toàn bộ tiểu thuyết của người viết văn khiêm nhường này chỉ tập trung vào thời Lê-Trịnh ?
Một dân tộc mà triều đình cai trị họ chỉ là một lũ quan lại vô duyên đến thế thì cái họa tan rã là ở ngay trước mắt.
Nguyễn Triệu Luật không viết về các đề tài đương thời như “một bạn đọc” gợi ý – lá thư giả tưởng viết cho “một bạn đọc” giả tưởng có lẽ là đủ để chứng minh cái động cơ viết văn của nhà tiểu thuyết tài hoa Nguyễn Triệu Luật : khai sáng cho người đương thời – kể cả khai sáng trong tuyệt vọng thì cũng cứ vần đá từng viên mà vá trời ! Sứ mệnh dấn thân của nhà khai sáng nào thì cũng vậy thôi, bất tri tam bách dư niên hậu…
Hà Nội, trước và sau ngày 19 tháng 8 năm 2012.
Phạm Toàn.
Nói thêm
Bà giáo Tám, thân mẫu Nguyễn Triệu Luật, là chị ruột bà ngoại tôi.
Vì thế trước năm 1945 tôi có dịp gặp anh Nguyễn Triệu Nam.
Thực ra anh Nam cũng chẳng thèm chơi với tôi. Chỉ vì một lần cùng bà ngoại về Du Lâm, chú Huệ con ông Cả Kế cho tôi mượn cái ống nhòm quân sự bằng đồng của anh Nam, tôi đã mang ống nhòm đó về nhà, do đó, mấy tháng sau, anh Nam phải ghé qua nhà tôi ở bên Hà Nội để lấy lại chiếc ống nhòm đó.
Hình như chiếc ống nhòm bằng đồng thô nháp đã đi theo những thăng trầm của ông giáo Luật và anh con trưởng, khiến ông giáo Luật qua đời quá sớm và anh Nam phải bôn ba quá xa. Tôi cứ định bụng lúc nào đó sẽ gạn hỏi những ai đó về những câu chuyện kín đáo năm 1946 – năm ông giáo Luật qua đời. Nhưng Lịch sử thì dài, và cuộc đời cá nhân thì ngắn. Sự bi quan có cội nguồn phát sinh như thế…
Cho tôi gửi bài cảm nghĩ này như một nén hương thắp ở Vân Điềm, thắp ở Du Lâm, thắp ở trong lòng người, nếu được người đời chấp nhận.
Bái biệt,
PT.
Chú thích
i Tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Triệu Luật (Thứ nam Nguyễn Triệu Căn tuyển chọn), Khoa học xã hội, Hà Nội, 2011, 664 trang khổ 16 x 24).
ii Sử ký Tư Mã Thiên, bản dịch của Phan Ngọc, Hà Nội, 2004.
iii Như trên
iv Tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Triệu Luật, đã dẫn, trang 11.
v Chín Mươi Ba, Châu Diên, Lê Hiệu, Trần Hồ dịch, Văn học 1982, tái bản 1985 kỷ niêm 100 năm ngày mất Victor Hugo.
vi Như trong Thượng Kinh ký sự của Hải Thượng Lãn Ông, trong Hoàng Lê nhất thống chí của gia đình họ Ngô, và nhất là trong Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim.
vii Tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Triệu Luật, đã dẫn, trang 189-190.
viii Như trên, trang 198.
ix Như trên, trang 214 – 125.
x Như trên, trang 138.
xi Như trên, trang 269.
xii Như trên, trang 270.
xiii Như trên, trang 271.
xiv Như trên, trang 276.
xv Như trên, trang 277.
xvi Như trên, trang 127.