Năm 1989, nhà văn Anh Justin Wintle là cây bút đầu tiên người nước ngoài được đến thăm Việt Nam.
Nói ông “được đến thăm” là một cách “chép Sử” thời đương đại khá trung thực, nếu ta biết rằng Việt Nam mình thời đó vừa thoát ra khỏi cuộc chiến, và những thói quen thời chiến vẫn còn sâu đậm; – trong tâm lý người bình thường, bất cứ người nước ngoài nào nếu không là “ông bà Liên Xô” thì đều có thể bị coi là “gián điệp”; – cũng tình trạng đó trong tâm lý những người trên mức bình thường không thể không dẫn đến tình trạng một đất nước bế quan tỏa cảng; với những ai năm nay ở tuổi 70 đến 90, điều đó chẳng lạ!
Justin Wintle đã thăm Việt Nam, đã gặp gỡ rất nhiều người từ người bình thường đến những người trên mức bình thường, và năm 1991, ông xuất bản tập sách nhan đề Romancing Vietnam (Pantheon xuất bản lần đầu tháng 1 năm 1991) – dịch là “Tiểu thuyết hóa nước Việt Nam” chắc là được nhỉ? Trong cuốn sách của ông có một chi tiết liên quan đến chủ đề “nóng bỏng” mấy bữa nay kể từ cuộc “Hội thảo Diên Hồng” về môn học Lịch sử, như nhiều tờ báo chạy tít. Chi tiết đó như sau. Tác giả gặp một nhà Sử học Việt Nam, chính xác là giáo sự Trần Quốc Vượng. Giáo sư than phiền nỗi Việt Nam thiếu tự do. Justin Wintle đã phản biện lại theo cách rất Ăng-lê, “Ông nói không có tự do, nhưng ông có Viện Khảo cổ học đấy thôi?”
Tôi nhớ lại chi tiết này khi gần đây đọc được vô số phản ứng về chuyện “khai tử” môn Lịch sử ở trường phổ thông, thậm chí trên báo mạng còn thấy xuất hiện khái niệm rất là bi đát, “thời mạt sử”.
Một vài khái niệm
Xin được phép nhắc lại một vài khái niệm chính người viết bài này đã phát biểu (và công bố trong một bài về nhà viết tiểu thuyết lịch sử Nguyễn Triệu Luật).
Trước hết ta có khái niệm Lịch sử. Lịch sử khác với Khoa học lịch sử, mà thường vẫn được gọi tắt là Lịch sử, hoặc là Sử, hoặc là Sử học, và trong nhà trường cách gọi tên còn tùy tiện hơn nữa: khi là Môn Sử, khi là Sử cộc lốc, khi lại là Lịch sử (nhập nhèm giữa “cái” Lịch sử, với khoa học về “cái” Lịch sử đó).
Lịch sử là một hiện tượng không biết nói, hoàn toàn không nói được, có thể gọi một cách hình tượng là “thằng Câm”. Nó vốn không cất lời lên được, nó “nói” qua cửa miệng kẻ khác, và khi đó, nó bị hai điều kiện khiến cho “thằng” Lịch sử trở thành kẻ câm hoàn toàn: điều kiện khách quan chính là “thằng” Thời gian – thời gian quá dài đã che khuất vô vàn tài liệu, mà ngay cả những chứng cứ khai quật và đo đếm hết sức khoa học có khi cũng khai báo sai tới hàng nghìn năm tuổi.
Còn yếu tố chủ quan là con người thì vừa khiến “thằng Lịch sử” khi thì bị câm, khi thì khai báo sai lệch. Khi một “chuyện” gì đó xảy ra, người đời không kịp ghi lại, rất nhiều khi còn không kịp hiểu. Do đó mà trong khi Lịch sử là một dòng chảy tự nhiên chứa đựng những chuyện có thực của loài người, thì các nhà Sử học ngay cả khi hành động “khách quan” nhất thì cũng thường chỉ có điều kiện bám vào những sự kiện lịch sử nhất định để ghi lại, để phân tích theo nhận thức chủ quan, sa đà vào những vùng sự kiện hợp khẩu vị, hợp với sở trường sở đoản, hợp với quyền lợi riêng nữa, để trở thành nhà Sử học chân chính một cách tự nhiên, hoặc để thành nhà Sử học có muốn chân chính cũng chật vật.
Nhiều “thành tích nghiên cứu” kiểu ấy lại được chọn và đưa vào nhà trường, tùy theo ý đồ và tùy theo cả cái gout, cái taste riêng nữa. Thế nên, nghệ sĩ Charles Chaplin trong “Tiểu sử tự viết” dù chỉ nói tâm trạng của riêng mình, nhưng cũng vô tình nói được những “nhận thức chủ quan” của những kiểu sử gia nào đó: “Giờ đây, nhà trường với tôi là đoạn khởi đầu của những chân trời mới: lịch sử, thơ ca và khoa học. Nhưng [ . . . ]. Lịch sử là một bộ lưu trữ tính ác và bạo lực, một sự liên tục các cảnh bầy tôi giết vua còn vua thì giết hoàng hậu, giết anh em con cháu; [ . . . ]. Nền giáo dục đã làm tôi hoang mang, vì các kiến thức và các sự kiện là những thứ tôi thật ít quan tâm. (Ch. Chaplin, Autobiography, Penguin xuất bản, 1962, trang 40).
Những nghệ sĩ đau đáu chuyện đời không làm sử gia có cách của họ là làm ra những tác phẩm nghệ thuật có đề tài lịch sử, ở đó chứa đựng những thông điệp gửi cho người đời. Thông điệp của nghệ sĩ là một cách bổ sung, đôi khi uốn nắn, nhiều khi chỉnh đốn cho những công trình “chủ quan” – hoặc thiếu khách quan hoặc không thể đủ sức khách quan – của các Sử quan.
Tiểu thuyết “Thiếp chàng đôi ngả” của Nguyễn Triệu Luật là một thông điệp về mối lo mất nước vào tay quân xâm lược nhà Minh bên Tàu. Người chồng vốn là quý tộc họ Trần báo cho vợ biết quyết định đổi họ theo họ Hồ để đoàn kết chống nguy cơ ngoại xâm đang cận kề. Người vợ và chồng “thiếp chàng đôi ngả” từ đó. Chàng ra trận. Chàng bị chết trận. Một tên giặc Tàu cũng chết trận. Ngòi bút tuyệt vời Nguyễn Triệu Luật đã mô tả hai cái xác chết ấy bỗng vùng dậy dâm chém nhau một lần cuối cho tới khi cả hai cùng gục xuống chết thêm một lần nữa. Dường như trong tiểu thuyết này, Nguyễn Triệu Luật muốn mọi người không chỉ thấy “họ Hồ chính sự phiền hà” và vì thế mà nên nhìn nhận những cải cách “phiền hà” của họ Hồ sao cho khách quan hơn.
Tiểu thuyết lịch sử “Chín mươi ba” của Victor Hugo lại mang một kiểu thông điệp khác. Một mặt Hugo tiếp tục ca ngợi hùng khí của Cách mạng 1789 mà năm 1793 là năm bi hùng nhất hạng. Tinh thần cực đoan của cuộc Đại cách mạng ấy thể hiện trong việc ông giáo Cimourdain (một thày tu trở thành chính ủy quân cách mạng vô thần) dù hết lòng yêu học trò cũ Gauvain là tiểu đoàn trưởng dưới quyền mình, vẫn tuyên án tử hình chàng sĩ quan trẻ về hành vi vô nguyên tắc đã thả ông nội anh là hầu tước Lantenac. Sau khi tuyên án và thi hành án xử tử hình Gauvain, Cimourdain đã rút súng tự vẫn, “và đôi linh hồn đồng điệu đau thương ấy cùng cất cánh bay, bóng đen của linh hồn này hòa trong ánh sáng của linh hồn kia”. Tinh thần cực đoan ấy là Nhân đạo hết mực, Cách mạng hết mực, Trách nhiệm hết mực, cho dù những giá trị Nhân đạo, Cách mạng và Trách nhiệm nhiều khi như là không tương thích với nhau – thông điệp của nhà văn V, Hugo là thế.
Thế nhưng, ở nhà trường, học sinh không thể trông chờ vào tác phẩm nghệ thuật để có những kiến thức chính xác, khoa học, và lắm khi đầy tồn nghi, thậm chí đầy mâu thuẫn của những sự kiện lịch sử và những bài học lịch sử rút ra một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Tác phẩm nghệ thuật (đề tài lịch sử) dù hấp dẫn đến bao nhiêu cũng chỉ là những gợi cảm – trong khi Khoa học Lịch sử phải mang đến cho học sinh những nhận thức không mập mờ. Khốn thay – và dây là bi kịch của những nhà sư phạm tổ chức việc học Khoa học Lịch sử trong nhà trường.
Có thể hình dung điều trớ trêu này, sẽ có vô số nhà viết Sử dù hăng máu tại Hội nghị Diên Hồng về môn học Lịch sử đấy, nhưng chính các vị đó sẽ lại cắn bút (hoặc cắn bàn phím) bó tay trước những cấm kỵ và kiêng cữ công khai hoặc hàm ẩn.
Hành động học
Nhóm biên soạn sách giáo khoa thiện nguyện Cánh Buồm đã xử lý đúng khái niệm hành động học theo đó mà hoàn thành dễ dàng việc biên soạn bộ sách 10 cuốn cho hai môn Tiếng Việt và Văn bậc Tiểu học. Nhóm có ít người và eo hẹp nguồn lực nên chọn đột phá làm mẫu vào những môn học khó nếu không nói là khó nhất – theo đánh giá của Nhóm, là các môn Khoa học xã hội và nhân văn – mà trong bối cảnh nước ta, đó là bốn môn: Tiếng Việt, Văn, Đạo đức, và Khoa học Lịch sử. Nhóm chọn cách “làm mẫu” không với ý nghĩa coi sản phẩm của mình là “mẫu mực”, mà là những gợi ý đột phá về cách làm, như được nói rõ trong bản “Tường trình” tại Ủy ban Văn hóa – Giáo dục – Thanh Thiếu niên Nhi đồng của Quốc hội ngày 16 tháng 7 năm 2014.
Xưa nay, sách giáo khoa Lịch sử cho học sinh phổ thông thường chỉ có trần trụi những sử liệu – những thứ vật liệu “khô khan” phù hợp với những đầu óc nghiên cứu. Các nhà biên soạn sách học Lịch sử thường không chú ý đến những hành động học của người học sao cho phù hợp với từng lứa tuổi ở từng bậc học.
Bậc Tiểu học, là bậc dùng tình cảm để đến với phương pháp học Lịch sử. Lên bậc Trung học cơ sở, học sinh dùng cả tình cảm và lý trí để đến với những kiến thức Lịch sử. Bậc Trung học phổ thông là nơi dùng tư duy triết học để tập đi sâu vào Khoa học Lịch sử, chuẩn bị cho bậc học cao hơn hoàn toàn mang tính tự nghiên cứu.
Các bậc học tuy khác nhau, nhưng có bốn hành động học chung nhau, hoặc cũng có thể gọi đó là những việc làm của học sinh khi học Lịch sử. Đó là:
Việc 1: Tiếp nhận sử liệu. Sử liệu được tiếp nhận như là những “vật tự nó” đối với mọi người. Việc đọc, và nhất là đọc thầm, được dùng để học sinh tự làm việc này.
Những sử liệu này có thể rất khác nhau. Tại Pháp, riêng ở Paris có tới tám bộ sách giáo khoa Lịch sử (theo bài báo điều tra của Nguyễn Thị Từ Huy, bản dịch của Phạm Toàn, đã đăng trên báo Tia sáng).
Ở những vùng “khó khăn”, có thể lấy sử liệu từ những giáo trình chính thống và chính thức. Không sao hết!
Việc 2: Nhập thân vào sử liệu. Công việc này sẽ tiến hành thuận lợi nếu học sinh học sách Văn của nhóm Cánh Buồm. Cách học này giúp các em được luyện các thao tác tưởng tượng qua trò chơi đóng vai, qua kịch câm và kịch nói. Học sinh sẽ dễ dàng vào vai các nhân vật lịch sử trong những bối cảnh có kịch tính.
Đó là bậc tiểu học. Lên bậc Trung học cơ sở, học sinh vẫn chơi đóng vai, ngoài ra cũng bắt đầu nhập thân trong những tranh luận tại những cuộc Hội thảo do các em tự tổ chức.
Ta có thể hình dung là lên bậc cao hơn học sinh sẽ mang đến một chất lượng khác cho cùng một việc làm nhập thân vào sử lieu.
Việc 3: Tự rút ra bài học lịch sử: Phải có những bài tập để học sinh tự rút ra bài học lịch sử chứ không chép những kết luận do giáo viên hoặc sách đưa ra.
Đây là một vài thí dụ về những bài tập gợi ý cho học sinh tiểu học:
- Em đi thăm đền thờ Hai Bà Trưng ở Hạ Lôi, em khấn Hai Bà một điều gì, em ghi lời khấn đó vào vở.
- Các em tự soạn và diễn một vở kịch ngắn Nguyễn Trãi liên hệ với người của Lê Lợi mời gia nhập nghĩa quân ở Lam Sơn.
- Ngày Tết, em đi ngang gò Đống Đa, em nói với Sầm Nghi Đống một điều gì, hãy ghi lại.
Việc 4: Sưu tầm – tự làm giàu tri thức Lịch sử : đây chính là phần tự học thêm, các tài liệu sưu tầm đi từ tranh ảnh, phim, cho đến những tư liệu nghiên cứu. Một khi học sinh ngay từ bậc tiểu học đã thích sưu tầm tư liệu lịch sử cho riêng mình, thì đoan chắc các em sẽ tiếp tục hứng thú và ngày càng củng cố kỹ năng đó khi học lên bậc học bên trên.
Bốn hành động học (thực hiện qua những việc làm mang tính giáo khoa) như trên sẽ giúp học sinh thích nghi với mọi trình độ của chương trình học. Mỗi cung cách làm chương trình học đều thể hiện một tầm lý tưởng của nhà sư phạm. Các nhà sư phạm ấp ủ một thế giới với những học sinh cũng yêu môn Lịch sử như mình, xin đừng đợi chờ một hoàn cảnh đẹp như mơ (như những cơn mơ khi đang Hội nghị Diên Hồng bên ngoài trời nắng bên trong có máy lạnh chạy ro ro). Đừng chờ những điều kiện chỉ có trong tưởng tượng. Hãy sống trong cuộc sống thực với mọi rắc rối của nó!
Lời cuối
Nhóm Cánh Buồm đang hoàn thành nốt sứ mệnh soạn sách Tiếng Việt và Văn cho bậc trên Tiểu học. Đó là cột xương sống của chương trình Khai Dân Trí của nhóm.
Nhóm Cánh Buồm đã khởi động soạn bộ sách Giáo dục Lối sống bậc Tiểu học nhằm tổ chức cuộc sống đạo đức thực của trẻ em mang tư duy Đồng Thuận. Sách đang được hoàn thiện và dạy thử ở vài cơ sở thực hành của chúng tôi.
Nhóm Cánh Buồm cũng đã khởi động soạn bộ sách Giáo dục Lịch sử bậc Tiểu học theo định hướng những hành động học Lịch sử như đã trình bày bên trên. Tiếc rằng đề án nhỏ này cứ hoạt động được ít lâu lại tan, mà nguyên nhân chính là không có người một lòng một dạ đeo đuổi một công việc vô cùng khó khăn. Một công việc vừa đòi hỏi một trình độ khoa học không thể thấp, lại vừa đòi hỏi một tầm trải nghiệm để biết cách vượt qua mọi rào cản một cách đàng hoàng.
Xin đừng bi quan: có thể có mạt vận nhưng không thể có mạt sử. Vấn đề là tìm ra cách làm cho môn khoa học làm lay động lòng người đó. Phải tìm ra cách làm để thành công mà không cần đến quá nhiều người hùng thất trận. Thời hiện đại, chẳng cần thêm người chết trước khi tới đích.
Xin nhắc lại, nhắc cho chính mình, để tự mình ghi khắc: không có mạt sử, chỉ chưa tìm ra cách làm.
Để vận không mạt, và sử không mạt.
Hà Nội, 25 tháng 11 năm 2015.
Phạm Toàn.