Ra mắt năm 2009 tại cuộc hội thảo Hiểu Trẻ em – Dạy Trẻ em, đến cuộc Hội thảo Em biết cách học năm 2014, nhóm Cánh Buồm đã trình xã hội trọn vẹn một bộ sách Tiểu học gồm 5 cuốn Tiếng Việt và 5 cuốn Văn đã được chỉnh sửa lần thứ ba, coi như bản chính thức tạm dùng lâu dài.


Những kết quả thực hành với học sinh tiểu học trường phổ thông liên cấp Olympia (Hà Nội) cho thấy giáo viên và học sinh vui vẻ đón nhận cách tổ chức học Tiếng Việt và Văn Cánh Buồm, giáo viên làm việc đỡ căng thẳng nhưng hiệu quả cao, học sinh học giỏi Văn và Tiếng Việt khiến phụ huynh yên lòng thấy con mình giỏi tiếng Anh mà không mất gốc.[1] Những trải nghiêm khác tại Câu lạc bộ Ô Xinh cũng cho những kết quả tương tự.[2]

Như đã nói nhiều lần, công việc của nhóm Cánh Buồm chỉ là “làm mẫu”, hiểu theo nghĩa là đưa ra sản phẩm cụ thể cho xã hội có chỗ vịn mà thảo luận những vấn đề lý thuyết khó hiểu, và “làm mẫu” cũng có nghĩa là kích thích[3] sáng tạo chung. Năm nay, 2015, nhóm Cánh Buồm đã làm xong các cuốn sách Tiếng Việt lớp Sáu và Văn lớp Sáu kèm theo hai cuốn Tự học Tiếng Việt và Tự học Văn (cho người học trên 10 tuổi, hàm ý những bạn chưa được chuẩn bị cách học của Cánh Buồm)[4].

 

Bài viết này sẽ điểm lại vài điều nhóm Cánh Buồm coi là vô cùng quan trọng liên quan đến việc soạn sách giáo khoa, thực chất là những thử nghiệm trong Cải cách Giáo dục của chúng tôi, trình ra đây để xã hội cùng thảo luận.

1.    Thử nghiệm một – Cải cách và Bản sắc dân tộc

Một cuộc Cải cách Giáo dục sâu rộng liên quan đến một lý tưởng đào tạo và việc tổ chức công trình đào tạo lý tưởng đó có tên gọi là nội dung học và cách học. Lý tưởng đào tạo của chúng ta chắc chắn không thể là những người “có học” bằng bất kỳ giá nào, nhất thiết đó phải là những người Việt Nam tử tế.

Một người Việt Nam tử tế chắc chắn không thể là người nói ngọng tiếng mẹ đẻ. Định lý đảo: công cuộc Giáo dục phải dùng công cụ mang bản sắc dân tộc – tiếng Việt – để rèn đúc những người Việt Nam nói năng, tư duy, viết lách, cư xử bằng tinh hoa tiếng mẹ đẻ. Định lý kéo theo: nhà sư phạm, và nhà sư phạm Việt Nam, phải chịu trách nhiệm tìm cho ra quy trình tạo năng lực tiếng Việt từ tuổi thấp nhất có thể[5].

Không khó gì để thuyết phục mọi người rằng tiếng Việt chính là cái xe chở bản sắc dân tộc Việt Nam trong nội dung và cách học để đạt tới lý tưởng đào tạo. Về vấn đề này, nhóm Cánh Buồm muốn hóa giải toàn bộ sự lúng túng xưa nay và nhấn mạnh điều đầu tiên và căn bản này: học tiếng Việt không khó, thậm chí rất dễ, trừ một khu vực rất khó học, vô cùng khó học, ấy là từ ngữ Việt.

Về ngữ âm, ngay với cách ghi nhớ máy móc và lối đánh vần lủng củng thời xưa, người học dù là trẻ em hoặc người lớn, vẫn có thể hoàn thành việc đọc và viết tiếng Việt trong một thời hạn rất ngắn, chừng vài ba tháng[6].

Chỉ cần học các thao tác ghi tiếng Việt bằng bộ luật chung nhất: luật ghi theo ngữ âm (nghe thế nào, phát ra thế nào, ghi đúng như vậy) và áp dụng thêm ba luật chính tả (luật e, ê, i, luật c, k, q, luật ghi nguyên âm đôi bằng ia hoặc iê, ua hoặc uô, ưa hoặc ươ) là đủ để đọc thông viết thạo với ý thức ngữ âm học.  Dĩ nhiên, người học sẽ còn phải học cách xử lý để không phạm những lỗi chính tả liên quan đến từ ngữ (da thịt, gia đình, dây thừng, giây phút, ý chí, trí tuệ, trí trá, trì trệ, chì chiết, vv…).

Về cú pháp, do tiếng Việt không biến hóa hình thái, nên câu tiếng Việt trở thành loại câu hoàn toàn dễ nói đúng (và viết đúng). Giống như với ngữ âm tiếng Việt, cứ phát âm đúng thì ghi đúng, hiện tượng câu tiếng Việt cũng thê, cứ nói đúng ý mình thì sẽ ghi đùng.

Những thuận lợi về ngữ âm và cú pháp đó hoàn toàn không thể bắt gặp ở các ngôn ngữ có biến hóa hình thái. Trẻ em nói những ngôn ngữ có biến hóa hình thái cần một thời gian dài hơn rất nhiều, phải nắm vững cả ngữ âm và cú pháp để có thể viết đúng chính tả.

Cái hiện tượng từng được gọi bằng “phong ba bão táp không bằng ngữ pháp Việt Nam là thứ bão táp gây ra bởi chính các nhà ngữ học muốn mô tả tiếng Việt theo cách người Tây mô tả tiếng Tây. Rất nhiều khi những mô tả ngôn ngữ học cho đối tượng tiếng Việt dù rất đúng, rất kỹ, song lại như chuyện chẻ sợi tóc làm tư, và không biết cách chuyển tải những am tường thành cách học cho người học tiếng Việt[7].

Đi song song với xu thế mô tả tiếng Việt ngày càng phức tạp hóa là xu thế đáng buồn, “cải cách hời hợt” mà biểu hiện rõ nhất là sự giống nhau như đúc về nguyên lý cấu tạo giữa sách Quốc văn giáo khoa thư thời xưa và bộ sách Ngữ Văn tồn tại dăm chục năm thời nay[8].

Nói ra những điều này thực lòng chẳng muốn trách ai. Cũng có thể trách Lịch sử đã không tạo ra những điều kiện cho những cuộc cải cách thực sự cho dù nhà cải cách nào cũng rất thực lòng. Nhắc lại ở đây chỉ cốt nói điều này: Cải cách Giáo dục phải bắt đầu từ cái hồn cốt dân tộc – môn Tiếng Việt, và gần với tiếng Việt là môn Văn. Đó là phần việc rất khó mặc dù nhìn bề ngoài tưởng như rất dễ – dễ đến độ ai cũng nghĩ mình nói được tiếng Việt thì mình cũng dạy được tiếng Việt – và dạy được cả Văn nữa.

2.    Thử nghiệm hai – huấn luyện cách tự học

Làm sách giáo khoa khác với viết và công bố một tác phẩm nghệ thuật. Một tác phẩm nghệ thuật là một tiếng nói ẩn dụ cất lên lạc lõng giữa Chợ Giời hoặc giữa Hoang Mạc. Còn sách giáo khoa là sự cụ thể hóa một ý đồ tổ chức sự phát triển của con em cả một dân tộc. Sứ mệnh của nó là phải đến được với con em, để con em có những sở hữu riêng và mới mẻ trong tư duy và kỹ năng chứ không chỉ sở hữu những cuốn sách trên giá sách ở góc học tập.

Vì thế, bộ sách giáo khoa Cánh Buồm chọn định hướng tổ chức cách học cho con em. Trong suốt bậc Tiểu học đã phải tìm ra những thao tác tự học và tự đánh giá cho con em quen dần, để rồi từ lớp 6 trở đi, việc học sẽ được thực hiện theo phương thức tự học.

Tự học, không phải là một ước vọng viển vông hoặc một mệnh lệnh duy ý chí của người lớn đối với con em. Tự học, đó phải là cả một chuỗi kỹ thuật học được nghiên cứu và truyền tay sang người học. Tự học, đó phải là một lối-sống-người, và là người-hiện-đại, như một “món quà hai tay dâng tặng trẻ em”[9]. Được xác định tại Hội thảo năm 2011 Tự học – Tự giáo dục[10], nhóm Cánh Buồm luôn luôn cố gắng không xa rời con đường vương giả ấy.

Hành vi tự học nằm trong cái gốc – nằm trong định nghĩa đối với khái niệm Giáo Dục.

Cho tới nay, khái niệm Giáo Dục bao giờ cũng mang tính áp đặt – dù mang động cơ tốt đẹp, thì cũng là dội từ “bên trên” ban xuống bên dưới, tác động vào người học.

Định nghĩa lại khái niệm xuất phát từ người học, ta sẽ thấy Giáo dục là một quá trình con người tự học thông qua những thích nghi và điều tiết. Đó là định nghĩa khái niệm Giáo dục tổng quát nhất,chắt lọc từ những nghiên cứu của nhà tâm lý học Jean Piaget. Định nghĩa này coi Giáo dục như là quá trình diễn ra những hành động của chủ thể giáo dục – bắt đầu từ tự học cách bú mút nghe nhìn sờ nắm cầm… rồi tiến lên các hành động và hành vi “sang trọng” khác.

Con người lọt lòng bắt đầu từ bỏ “quá khứ” môi trường sống trong dạ con của mẹ, tối om, đầy nước, không ăn uống hít thở, vì được nối với mẹ bằng cuống nhau. Liền đó, đứa nhỏ có lai lịch một phút tuổi đời bắt đầu phải tự thích nghi với môi trường sống bên ngoài dạ con. Con người bé bỏng ấy tự học ngay từ phút đầu tiên chào đời – tự ăn, tự thở, tự sống bên ngoài dạ con. Những cô cậu học trò đó thích nghi với môi trường sống và đạt đến những điều học được (Piaget gọi là những “acquis”) và những điều học được sẽ từng bước được điều tiết cho phù hợp với những điều mới học được thêm. Con đường phát triển đó được nghiên cứu bởi Tâm lý học phát triển.[11]

Hệ quả của định nghĩa này đặc biệt nghiêm trọng đối với tư duy và hành động của nhà sư phạm. Tại vì nhà sư phạm là người tổ chức quá trình thích nghi và điều tiết đó.

Nó lại càng vô cùng nghiêm trọng xét theo chủ thể người học, với đặc tính chung là tính dễ dát mỏng (malleable) – trong cuộc sống thực, đó là “đức tính” dễ bảo và dễ sai khiến. Về mặt sinh học cũng như xã hội học, chủ thể càng malleable thì càng dễ sống. Gặp môi trường nào chủ thể cũng thích nghi và điều tiết theo được.

Rất dễ để trở thành những kẻ nô lệ hoàn hảo. Và khó khăn đau đớn vô cùng để cưỡng lại sự dát mỏng, để trở thành những con người tự do đầy trách nhiệm, để không trở thành những công cụ “nên người” ngay cả khi các ông chủ khéo mồm tránh dùng chữ “công cụ” mà thay bằng “nguồn lực xã hội”.

3.    Thử nghiệm ba – làm sách Cánh Buồm

Khái niệm Giáo dục như được định nghiã lại đã dắt dẫn nhóm Cánh Buồm trong việc làm sách, từ sách Tiểu học qua sách lớp Sáu – và ơn Giời đất ơn Tổ tiên phù hộ, nhóm sẽ cố tổ chức hoàn thành sớm nhất sách lớp Bảy, lớp Tám và lớp Chín – một bộ sách được làm ra không vì mục đích làm sách, mà như cái mẫu xác định những việc làm của một nhà trường như một môi trường tổ chức sự phát triển tốt đẹp nhất cho con em.

Khi xây dựng bộ sách tiểu học, rồi tiếp nối sang sách lớp Sáu, nhóm Cánh Buồm xác định khái niệm chương trình như sau: đó là một hệ thống việc làm dẫn tới một lý tưởng đào tạo. Nhà sư phạm tầm cỡ nào thì có lý tưởng đào tạo cỡ ấy – và họ sẽ tìm ra cách tổ chức cho người học của họ đi đến lý tưởng ấy.

Đầu óc sư phạm nào, chương trình ấy. Chương trình nào, sách giáo khoa ấy. Sách giáo khoa không chỉ có duy nhất một hình thái tồn tại là dạng bản in và bày bán ở các cửa hàng sách. Đó mới chỉ là một hình thái của sách giáo khoa, mà nếu có chất lượng cao thì đó vẫn chỉ là những “biên bản cho trước” để học sinh tham khảo.

Một hình thái tồn tại khác của sách giáo khoa là những việc làm được giáo viên tổ chức cho học sinh thực hiện trong mỗi tiết học. Những việc làm đó nằm chờ trong sách giáo khoa hình thái một, để giáo viên và học sinh đem ra dùng trong tiết học. Theo quan điểm này, xin các nhà duyệt sách trong xã hội soi xét để thấy đâu là bộ sách giáo khoa đúng nghĩa.

Tiếp theo là hình thái tồn tại thứ ba của sách giáo khoa trong tâm lý người học, mà nhà trường, gia đình và xã hội có thể kiểm soát hoặc chứng kiến chúng thể hiện trên những ghi chép, những bài viết, những hành vi, hành động, hoạt động của những “con người lý tưởng” của mình.

Ba hình thái tồn tại này tạo thành một định nghĩa khác cho khái niệm sách giáo khoa.[12]

Xin giới thiệu qua vài nội dung cốt lõi sách lớp Sáu mới của nhóm Cánh Buồm.

Về Tiếng Việt, ở lớp Một học sinh đến với Ngữ âm học thực hành qua vật liệu là tiếng Việt để đến kết quả thực tiễn là một trình độ đọc và viết tiếng Viêt mang ý thức ngữ âm học (biết rõ vì sao mình đúng hoặc mình sai khi đọc và khi viết). Lên lớp Sáu, học sinh trở về với Ngữ âm học ở bình diện lịch sử ghi âm tiếng Việt. Các em sẽ nghiên cứu cách ghi tiếng Việt bằng chữ Hán và bằng chữ Nôm và nhận rõ những bất cập của các hình thức ghi âm đó. Các em sẽ học tiếp sang cách ghi âm bằng bộ chữ cái latin. Các em sẽ học để biết cao trào dùng chữ quốc ngữ với Nguyễn Văn Vĩnh và Đông Kinh nghĩa thục.[13] Các em sẽ học để thấy những dân tộc thuộc vành đai Hán Ngữ (Nhật Bản và Triều Tiên) đã xây dựng bộ chữ quốc ngữ của họ ra sao. Các em sẽ nghiên cứu những luận điểm ủng họ và cưỡng lại việc phổ biến chữ quốc ngữ latin hóa ở nước ta. Các em sẽ đánh giá công việc của tiền nhân… Cũng về ngữ âm học tiếng Việt, các em sẽ học về những khác biệt ngữ âm giữa các địa phương, về cách ghi âm tiếng nước ngoài sang tiếng Việt, và về vẻ đẹp của vần tiếng Việt trong tiếng nói dân gian… tất cả để chuẩn bị cho các em vào đời…

Về Văn, ở lớp Một, học sinh tự tạo cho mình Lòng đồng cảm qua các trò chơi đóng vai để hiểu tình cảm của người nghệ sĩ chân chính. Lên lớp Sáu, các em trở lại và nâng cao giá trị tinh thần đó của người nghệ sĩ trong một hành động sáng tạo có cùng nguồn gốc: cảm hứng sáng tác. Trong sách Văn lớp Sáu các em sẽ học để biết vì sao người ta làm nghệ thuật, vì sao viết văn xuôi, vì sao làm thơ, vì sao vẽ tranh?… Về văn xuôi, sau bài nghiên cứu mẫu là truyện ngắn Nhà văn của Anton Tchekhov, các em tự làm bài tập với vật liệu là các tác phẩm của Nguyên Hồng, Duy Khán, Maxim Gorky, Lev Tolstoy, Anatole France…  Về thơ, sau khi học bài tổng quan, các em tự làm bài tập đi tìm lý do làm thơ với vật liệu thơ của Hoàng Cấm, Maya Angelou, Jacques Prévert, Hoàng Hưng, Tagore, Vương Duy, Basho, Rumi, Lermontov, Robert Frost… Về hội họa, các em học bài tổng quan, sau đó tự học về họa sư Nam Sơn, người có công đầu mở trường Mỹ thuật Đông Dương.[14]

Sau mỗi bài học (cả hai môn) kéo dài trên dưới một tháng, học sinh sẽ viết tiểu luận đọc tại Hội thảo. Ngoài ra, đến cuối năm học Văn lớp Sáu, các em sẽ tham gia cuộc liên hoan dịch thơ John Donne với bản dịch “mồi” của dịch giả nhà giáo Trần Ngọc Cư. Những hoạt động sư phạm đó tạo thành công việc tự kiểm tra, tự đánh giá của học sinh.

 

Lời thưa … kết thúc câu chuyện

Mẫu người học lý tưởng và cách tổ chức tự học cho những chủ thể của Giáo dục đó sẽ được triển khai tiếp cho tới hết lớp Chín như thế nào, đó sẽ là nội dung khác.

Có cần nói thêm chăng, rằng bản thân những người trong cuộc, cùng nhau khai sinh bộ sách Văn và Tiếng Việt lớp Sáu mang thương hiệu Cánh Buồm, nhiều người cũng thấy ngỡ ngàng khi cầm trên tay sản phẩm của chính mình. Ngỡ ngàng trước những sản phẩm mình chưa từng thấy, chưa từng được học khi mình là học trò lớp Sáu. Một sự ngỡ ngàng lặp lại cảm xúc của nhà nghiên cứu triết học Bùi Văn Nam Sơn khi đọc bộ sách ở dạng bản thảo:

“Tôi chưa bao giờ dám tưởng tượng rằng vào lớp 6, mình lại được học Văn và tiếng Việt một cách thâm thúy và mới mẻ tuyệt vời như thế! Có lúc tôi giật mình: lớp 6 mà được học thế này thì lên các lớp cao hơn, cho đến khi thi Tú tài, mình còn được học đến đâu nữa? Hết mấy “bồ chữ trong thiên hạ” chứ chẳng chơi! Nếu qua kết quả thực nghiệm từ lớp 1 đến lớp 5, Quý Anh Chị có căn cứ để tin chắc rằng học sinh lớp 6 có thể lĩnh hội được nội dung các bài giảng trong hai tập sách, tôi thật sự quá vui mừng trước tương lai tươi sáng của nền giáo dục nước nhà! (Trích).

Bùi Văn Nam Sơn đã dè dặt nhắc nhóm Cánh Buồm “Nếu qua kết quả thực nghiệm từ lớp 1 đến lớp 5…”

Xin thưa, chuẩn mực đạo lý buộc tất cả chúng ta theo sát cuộc sống thực, nhằm tìm cách nâng cái thực tại ngổn ngang và tẻ nhạt lên tầm đòi hỏi của lý thuyết. Trong công việc này, sức vóc sư phạm của mỗi nhóm tới đâu, xin cứ dâng nộp hết cho cuộc sống. Trong khuôn khổ lần ra mắt xã hội năm 2015 này, nhóm Cánh Buồm xin trình duyệt mấy cuốn sách mới cùng với ba điều thuộc những thử nghiệm trong cải cách giáo dục.

Xin nhắc lại: những thử nghiệm trong cải cách giáo dục, không phải toàn bộ cuộc Cải cách Giáo dục.

Hà Nội, 21 tháng 7 năm 2015

Phạm Toàn.  

 


[1]   Nhóm Cánh Buồm bày tỏ lòng biết ơn về sự hợp tác hữu hiệu của cô giáo Phạm Hải Hà và các cô giáo Thu Ngọc, Phương Anh, Minh Hạnh, Khánh Hòa, sự hợp tác về tổ chức của cô giáo Hồng Duyên, cám ơn các phụ huynh đã theo dõi việc học Văn và Tiếng Việt, đặc biệt phụ huynh lớp 5A1 đã cùng con em thi dịch thơ tiếng Anh sang tiếng Việt dạng thơ Haiku. Một số tư liệu đã được lưu giữ ở đây: “Trải nghiệm dạy ngôn ngữ và văn”,  http://canhbuom.edu.vn/index.php/su-pham/524-trai-nghiem-day-ngon-ngu-va-van;“. . . Học trò nhỏ tập làm thơ” http://canhbuom.edu.vn/index.php/blog/522-day-hoc-ngu-van-trong-nha-truong-10-hoc-tro-nho-tap-lam-tho;

[2]   Cám ơn bạn Lê Thị Thanh Thủy trong 4 năm qua đã giúp nhóm Cánh Buồm một địa chỉ đào tạo giáo viên đáng tin cậy.

[3]  Tường trình của Nhóm Cánh Buồm tại Ủy ban Văn hóa, Giáo dục Thanh niên Thiếu niên Nhi đồng của Quốc hội Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 16 tháng 7 năm 2014, http://canhbuom.edu.vn/index.php/cung-ban-dung-sach/488-canhbuom-bao-cao-quoc-hoi

[4]   Học sinh Trung học cơ sở trường Đào Duy Từ (Hà Nội) đã có dịp trải nghiệm sách này vào mùa hè năm 2015.Cám ơn cô hiệu trưởng Hồng Thu và cô giáo dạy mẫu Nguyễn Thị Hồng.

[5]   Nhà sư phạm nói ở đây ngoài tác giả và người thực hiện quy trình sư phạm (các giáo viên), còn bao gồm cả các nhà tổ chức công việc Giáo dục quốc dân và không thể thiếu những bậc phụ huynh. Một nhà tổ chức với đầu óc thiếu cởi mở thì cũng nguy hại như một phụ huynh quá cởi mở thích cư xử về ngôn ngữ chẳng hạn như sau: “Con bai bai ông bà rồi chúng ta ra về…”

[6]   Học trò lớp Đồng ấu thời xưa sau khi học thuộc mặt chữ cái đã đánh vần kiểu như thế này, thí dụ chữ nguyệt:  en-dê-u-ngu-y cờ lét-i-nguy-ê-nguê-tê-nguyết-nặng-nguyệt – Thế mà rồi vẫn đọc viết được! Trăn trở với việc học bằng tiếng Việt sau khi chắc chắn sẽ có nền độc lập cho Việt Nam, Hoàng Xuân Hãn vừa lo chuyện Danh từ khoa học và vừa gợi ý cách học tiếng Việt lối Ngữ âm học.Tiếc rằng vì quá hời hợt nên nhiều nhà sư phạm chỉ thấy cách học của Hội Truyền bá Quốc ngữ là “lối i tờ” và không biết triển khai thành cách học mang tính ngữ âm học.

[7]    Những giáo viên đã dùng sách Cánh Buồm đều nhận ra tính chất “thân tình”, cố ý không gây khó khăn cho người học.

[8]   Người không có nghề sẽ thấy sách Quốc văn giáo khoa thư (QVGKT) năm 1920 của nhóm Trần Trọng Kim – Nguyễn Văn Ngọc khác với sách Ngữ Văn thời nay. Thực ra, chúng chỉ khác nhau ở vật liệu: QVGKT mới có nhân vật cỡ thằng Mực (nó học thuộc lòng như thế nào), bây giờ có những nhân vật khác (làm nhiều việc khác), do đó mà số “chủ điểm” cũng nhiều hơn. Thế nhưng nguyên tắc tổ chức việc học vẫn như nhau: không thực sự học tiếng Việt như một ngôn ngữ. Với môn Văn cũng thế, cả sách Ngữ-Văn lẫn QVGKT đều không thực sự học Văn như một đối tượng nghệ thuật, mà chỉ học Văn như  một công cụ chuyên chở.

[9]   Tường trình của Nhóm Cánh Buồm tại  Ủy ban Văn hóa, Giáo dục Thanh niên Thiếu niên Nhi đồng  của Quốc hội Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 16 tháng 7 năm 2014, http://canhbuom.edu.vn/index.php/cung-ban-dung-sach/488-canhbuom-bao-cao-quoc-hoi

[10]     Nhóm Cánh Buồm,  Một nền giáo dục Việt Nam hiện đại – Kỷ yếu hội thảo Tự học – Tự giáo dục , Tri thức xuất bản, Hà Nội, 2011, sách dày 232 trang.

[11]    Sẽ hiểu vì sao cùng với chương trình và sách giáo khoa, nhóm  Cánh Buồm cũng tìm mọi cách để cho ra đời Tủ sách Tâm lý học Giáo dục Cánh Buồm với hai bản dịch đầu tiên – (1) Jean Piaget, Sự ra đời trí khôn ở trẻ nhỏ (Hoàng Hưng dịch);  (2) Howard Gardner, Cơ cấu trí khôn (Phạm Toàn dịch). Một cuốn tiếp theo của Jean Piaget cũng sắp ra mắt: Sự hình thành biểu trưng ở trẻ nhỏ (Nguyễn Xuân Khánh dịch).

[12]     Mời tham khảo sách dã dẫn, Một nền giáo dục Việt Nam hiện đại – Kỷ yếu hội thảo Tự học – Tự giáo dục , Tri thức xuất bản, Hà Nội, 2011, trang 34-36

[13]    Do quỹ thời gian có hạn và chưa tìm được người viết, nên sách Tiếng Việt 6 còn thiếu bài về Phạm Quỳnh, về Hội Truyền bá chữ quốc ngữ, và nhất là về cao trào “Diệt giặc dốt” do cụ Hồ Chí Minh khởi xướng. Thiếu sót này sẽ được chữa ngay trong lần tái bản đầu tiên.

[14]   Nhóm tổ chức biên soạn xin lỗi lứa học sinh đầu tiên sẽ dùng tập sách Văn lớp Sáu này vì chưa soạn kịp bài về “Vì sao người ta chơi kịch”.Thiếu sót này sẽ được chữa ngay trong lần tái bản đầu tiên.